Toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025

DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV, nhiệm kỳ 2015-2020

trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025

———————————————————-

Về chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị):

 “Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy đoàn kết, dân chủ, đổi mới, sáng tạo; bảo đảm quốc phòng, an ninh; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực; quyết tâm xây dựng tỉnh Cà Mau phát triển nhanh, bền vững”.

Về phương châm chỉ đạo Đại hội 

“Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Sáng tạo, Phát triển” 

Phần thứ nhất

KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XV

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020 được triển khai, thực hiện trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi, đan xen với những khó khăn, thách thức. Đối với tỉnh Cà Mau, phải đối mặt với biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, sạt lở bờ biển, bờ sông, hạn hán, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cả một số hàng hoá chủ lực không ổn định, đặc biệt do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 làm ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế – xã hội, đời sống của nhân dân. Trước khó khăn đó, Đảng bộ, dân và quân trong tỉnh đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đạt được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Cụ thể như sau:

I- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU 

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV được xây dựng trong bối cảnh khá thuận lợi, nên chọn phương án tăng trưởng khá cao; tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện gặp không ít khó khăn tác động, đánh giá cuối nhiệm kỳ có 13/20 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt, 7/20 chỉ tiêu xấp xỉ đạt. Đa số các chỉ tiêu chủ yếu về tăng trưởng kinh tế, xã hội ở mức khá trong khu vực; bộ mặt đô thị, nông thôn thay đổi rõ nét, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên… mục tiêu đến năm 2020 trở thành tỉnh phát triển khá của vùng đồng bằng sông Cửu Long cơ bản đạt. 

II- KIỂM ĐIỂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI TRÊN CÁC LĨNH VỰC

1. Kinh tế phát triển khá toàn diện; cơ cấu lại nền kinh tế được thực hiện tích cực và đạt kết quả bước đầu

1.1. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được triển khai, thực hiện nghiêm túc, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế – xã hội

Quán triệt, cụ thể hoá thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về phát triển kinh tế tư nhân. Các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; thực hiện hoàn thành sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, đa dạng ngành nghề, giải quyết nhiều việc làm, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế của tỉnh; kinh tế hợp tác phát triển khá, có bước đổi mới.

Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện để thu hút đầu tư; thường xuyên tổ chức họp mặt, đối thoại với doanh nghiệp, nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. 

1.2. Thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng cả chiều rộng và chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế

 Triển khai, thực hiện nghiêm túc các thể chế của Nhà nước; đồng thời  nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, tạo bước đột phá trong giải quyết thủ tục hành chính; chỉ số năng lực cạnh tranh, chỉ số hiệu quả quản lý cải thiện đáng kể, mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp được nâng lên rõ rệt qua từng năm (năm 2019 đạt thứ hạng 3/63 tỉnh, thành phố và đứng đầu trong các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long). 

Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ tỉnh đến cơ sở được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp hơn; hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của chính quyền từng bước được nâng lên.

Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2020, đề án, kế hoạch đào tạo cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực của tỉnh, nhất là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài, đưa trí thức trẻ về cơ sở được triển khai thực hiện có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cơ bản đạt chuẩn theo quy định. Nguồn nhân lực phục vụ các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, chất lượng nâng lên.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tập trung đầu tư, trong đó ưu tiên đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng như: giao thông, lưới điện, thuỷ lợi, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, xã hội… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống của Nhân dân. 

Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: 

Tổng sản phẩm (GRDP theo giá so sánh) tăng bình quân gần 7%/năm; quy mô nền kinh tế ước đạt hơn 60 ngàn tỷ đồng, tăng gấp 1,35 lần so với năm 2015; GRDP bình quân đầu người đạt gần 51 triệu đồng/người (tương đương 2.182 USD), tăng gần 1,3 lần so năm 2015. Triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu kinh tế đạt được một số kết quả quan trọng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực dịch vụ và giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp (trong đó khu vực dịch vụ chiếm 41,7%) . 
Sản xuất ngư, nông, lâm nghiệp tăng hơn 5% (chỉ tiêu Nghị quyết tăng 4%), cao hơn mức bình quân chung cả nước (2,7%). Cơ cấu lại ngành nông nghiệp đạt nhiều kết quả tích cực, nhất là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng. Thuỷ sản tiếp tục khẳng định vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, diện tích nuôi tôm thâm canh 8.720 ha (Nghị quyết đề ra khoảng 20.000 ha), diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến 150.000 ha (Nghị quyết đề ra từ 120.000 ha trở lên); tổng sản lượng thuỷ sản 5 năm đạt 2,7 triệu tấn, bình quân tăng 3,7%/năm (Nghị quyết đề ra 2,8 triệu tấn, bình quân tăng 3,9%/năm). Sản xuất lúa theo mô hình cánh đồng lớn được mở rộng (đạt gần 15.000 ha), năng suất tăng hơn 10% so với sản xuất truyền thống; sản xuất lúa hữu cơ đạt kết quả bước đầu; tổng sản lượng lúa 5 năm đạt 2,5 triệu tấn (Nghị quyết đề ra 3 triệu tấn). Sản xuất rau màu hiệu quả khá, hình thành một số vùng sản xuất tập trung. Kinh tế biển phát triển mạnh, các chương trình đầu tư, hỗ trợ kinh tế biển được triển khai, thực hiện khá tốt; khai thác thuỷ sản được quản lý tốt hơn, giảm dần tình trạng khai thác trái phép; nguồn lợi thuỷ sản được bảo vệ khá chặt chẽ.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện đồng bộ, rộng khắp theo phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, đạt nhiều kết quả tích cực, bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên. Đến cuối năm 2020, bình quân toàn tỉnh đạt 15,2 tiêu chí/xã; có 41/82 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 50% tổng số xã, tăng 29% so năm 2015.

Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế, xã hội 5 năm gần 74.000 tỷ đồng, chiếm 28% GRDP (Nghị quyết đề ra 30%). Tổng thu ngân sách Nhà nước 5 năm hơn 26.000 tỷ đồng (tăng 1,3 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XIV), đạt 80% chỉ tiêu Nghị quyết. Chi ngân sách hơn 43.000 tỷ đồng, tăng bình quân 14%/năm; thực hiện tốt các giải pháp tái cơ cấu đầu tư công, chi đầu tư phát triển chiếm 40% tổng chi. Hoạt động và tăng trưởng tín dụng khá, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế; nợ xấu được kiểm soát và xử lý khá tốt . 

Tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân 4%/năm; năng lực sản xuất không ngừng tăng lên, tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chủ lực, như: chế biến thuỷ sản, sản xuất điện, đạm, khí hoá lỏng Sản lượng chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu 5 năm đạt 700.000 tấn (Nghị quyết đề ra 850.000 tấn). Hệ thống lưới điện nông thôn được ưu tiên đầu tư; tỷ lệ hộ dân sử dụng điện tăng từ 97,5% năm 2015 lên 99,9% năm 2020. Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo đang được đầu tư khai thác, chiều hướng phát triển tốt. Hạ tầng khu kinh tế, các khu, cụm công nghiệp được tập trung đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để mời gọi, thu hút đầu tư.

Khu vực thương mại, dịch vụ phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 9,94% (chỉ tiêu Nghị quyết 10%). Các ngành dịch vụ thương mại, ngân hàng, vận tải, y tế, bảo hiểm, viễn thông, du lịch, tư vấn… phát triển tốt; hình thành nhiều trung tâm thương mại, cung ứng đa dạng hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống Nhân dân. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng bình quân 21%; lượng hành khách vận chuyển tăng 25%. Du lịch từng bước phát triển tốt hơn, cơ sở vật chất, các công trình hạ tầng tiếp tục được đầu tư; ước 5 năm thu hút hơn 7,3 triệu lượt khách (trong đó có 135.000 lượt khách quốc tế), tăng 58% lượt khách; doanh thu du lịch ước đạt hơn 9.000 tỷ đồng, tăng 3,6 lần so nhiệm kỳ trước. Kim ngạch xuất khẩu 5 năm gần 5,6 tỷ USD (chỉ tiêu Nghị quyết đề ra 7,5 tỷ USD), tiếp tục là tỉnh đứng đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tôm. Quan tâm xây dựng và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu các sản phẩm, đặc sản chủ lực của tỉnh như: cua Năm Căn, tôm khô Rạch Gốc, mật ong U Minh… góp phần mở rộng thị trường, mở rộng quy mô sản xuất, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và Nhân dân.

Mối liên kết kinh tế được tăng cường, đã triển khai thực hiện tốt các nội dung hợp tác, liên kết vùng với các địa phương, đơn vị theo kế hoạch liên kết phối hợp toàn vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020.

1.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư; đô thị từng bước phát triển theo hướng hiện đại

Tỉnh ưu tiên bố trí ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư hạ tầng kinh tế – xã hội, tập trung vào các ngành, lĩnh vực quan trọng, các dự án, công trình trọng điểm. Nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng như: cầu Hoà Trung II, đường hành lang ven biển phía Nam, đường Hồ Chí Minh đoạn Năm Căn đến Đất Mũi, đường trục chính Đông – Tây, đường bờ Nam Sông Đốc – Quốc lộ 1A, đường Tắc Thủ – Vàm Đá Bạc, đường trục chính và đường Bắc – Nam Khu Kinh tế Năm Căn… hình thành các trục, tuyến giao thông chính, kết nối các vùng trong tỉnh; hoàn thành Đề án đường ô-tô về trung tâm xã; giao thông nông thôn phát triển mạnh; hạ tầng thuỷ lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất; hạ tầng văn hoá – xã hội được ưu tiên đầu tư như: bệnh viện, trạm y tế, trường học, các thiết chế văn hoá…    

Triển khai thực hiện Chương trình phát triển đô thị tỉnh Cà Mau giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030 đạt nhiều kết quả tích cực. Dự án nâng cấp đô thị thành phố Cà Mau được thực hiện hoàn thành, phát huy hiệu quả. Tỷ lệ đô thị hoá đến cuối năm 2020 đạt 22,7%.

Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế còn những hạn chế, khó khăn:

Công tác quy hoạch theo Luật Quy hoạch thực hiện còn chậm, ảnh hưởng đầu tư phát triển kinh tế – xã hội; chính sách tích tụ ruộng đất, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn nhiều vướng mắc, khó thực hiện. Thuỷ sản được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của tỉnh nhưng khai thác, phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững. Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất chưa nhiều. Một số ngành, lĩnh vực có lợi thế nhưng chưa được khai thác, phát huy hiệu quả, nhất là kinh tế lâm nghiệp. Chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô nhỏ lẻ. Kinh tế tập thể hiệu quả còn thấp.

Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng chậm, không đạt mục tiêu nghị quyết đề ra, do các sản phẩm công nghiệp chủ yếu như: chế biến thuỷ sản, khí, điện, đạm đã hoạt động hết công suất, trong khi chưa có thêm các cơ sở công nghiệp mới quy mô lớn; kim ngạch xuất khẩu không đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. 

Dịch vụ có giá trị gia tăng cao phát triển chưa mạnh, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn để khai thác tiềm năng của tỉnh, nhất là du lịch, cảng biển; tiềm năng du lịch khai thác hiệu quả còn thấp, chưa có nhiều sản phẩm du lịch thương hiệu riêng của Cà Mau. Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh chưa thật sự chuyển biến mạnh về số lượng và chất lượng.

Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng các khu công nghiệp, nên chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư; huy động vốn từ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Tỷ lệ đô thị hoá còn thấp, không đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.

2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục đổi mới và có bước phát triển

Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chỉ đạo, thực hiện rà soát, sắp xếp trường, lớp học, giáo viên tinh gọn; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chuyển biến tích cực ở tất cả các bậc học, cấp học. Giáo dục nghề nghiệp đa dạng hoá các hình thức, nội dung, phương pháp đào tạo theo nhu cầu việc làm của xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được chuẩn hoá; cơ sở vật chất và các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục được quan tâm đầu tư phát triển. Ước 5 năm, toàn tỉnh công nhận 90 trường đạt chuẩn quốc gia (nghị quyết đề ra 164 trường), nâng tổng số có 296/522 trường học đạt chuẩn, chiếm gần 57% tổng số trường. 

Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được triển khai rộng rãi trên các lĩnh vực đời sống xã hội; đa số các đề tài, dự án được triển khai ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Công tác sở hữu trí tuệ và hoạt động quản lý Nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hoá thực hiện khá chặt chẽ, đúng quy định. 

Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp, chưa đồng đều; công tác quản lý trường, lớp học, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục có nơi chưa chặt chẽ; xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia gặp khó do thiếu vốn, nhiều trường bị rớt chuẩn; xã hội hoá giáo dục chưa chuyển biến mạnh. Đội ngũ làm công tác khoa học và công nghệ còn thiếu và yếu. Đầu tư khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. 

3. Văn hoá – xã hội có nhiều tiến bộ

Quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường; đời sống văn hoá của Nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp được đề cao và phát huy. Hoạt động nghệ thuật phát triển đúng định hướng, gắn với nhiệm vụ chính trị từng địa phương. Thiết chế văn hoá, thể dục thể thao cơ sở dần được hoàn thiện. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, các di tích lịch sử cách mạng được quan tâm, như: xây dựng Đền thờ 10 anh hùng liệt sĩ khởi nghĩa Hòn Khoai, các tượng đài, bia kỷ niệm, ghi danh các anh hùng, liệt sĩ… Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh được duy trì và có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức. Phong trào toàn dân rèn luyện sức khoẻ phát triển khá. 

Công tác thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản được thực hiện kịp thời, hiệu quả. Tỉnh đã thực hiện sắp xếp các cơ quan báo chí theo Đề án của Thủ tướng Chính phủ, qua sắp xếp toàn tỉnh còn 3 cơ quan báo chí (Báo Cà Mau, Đài Phát thanh – Truyền hình, Tạp chí Văn nghệ Cà Mau); có 100% huyện, thành phố và 89% xã, phường, thị trấn được đầu tư đài truyền thanh. Hạ tầng và các dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển mạnh, bảo đảm thông suốt, đáp ứng yêu cầu của xã hội.  

Chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện có hiệu quả. Giải quyết việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt chỉ tiêu nghị quyết; Đề án của tỉnh đưa lao động đi làm việc nước ngoài bước đầu có hiệu quả; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,87%, hộ cận nghèo giảm còn 1,7%; đến năm 2018, toàn tỉnh không còn hộ gia đình chính sách thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo. Vận động gần 70 tỷ đồng quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và sửa chữa 928 căn nhà tình nghĩa; hoàn thành 4.363 căn nhà, kinh phí hơn 202 tỷ đồng hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; đời sống gia đình chính sách được nâng lên rõ rệt.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ Nhân dân cơ bản đáp ứng yêu cầu. Các chỉ tiêu về tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế, số bác sĩ/vạn dân, số giường bệnh/vạn dân… đều đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Y tế dự phòng được quan tâm, các bệnh truyền nhiễm được kiểm soát, xử lý tốt, đặc biệt với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân, toàn quân, công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 tại địa bàn tỉnh đạt kết quả tốt. Mạng lưới và cơ sở vật chất y tế tiếp tục phát triển; một số công trình bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện đã được đầu tư và hoàn thành đưa vào sử dụng. Tuyên truyền, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện thường xuyên, những trường hợp vi phạm bị xử lý nghiêm. 

Lĩnh vực văn hoá – xã hội còn một số hạn chế: các thiết chế văn hoá, thể thao thiếu tính đồng bộ, hiệu quả khai thác còn hạn chế; phong trào văn hoá, văn nghệ trong Nhân dân còn yếu. Giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ nghèo một số huyện còn cao. Đào tạo nghề một số ngành nghề chưa gắn nhu cầu lao động của xã hội; giải quyết việc làm chủ yếu ngoài tỉnh; tình trạng khan hiếm lao động nông thôn có xu hướng tăng. Chất lượng khám, chữa bệnh ở một số cơ sở y tế còn thấp; tinh thần thái độ phục vụ của y, bác sĩ, nhân viên y tế một số nơi chưa tốt; cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh ở nhiều bệnh viện chưa đáp ứng yêu cầu.

4. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng được coi trọng và đạt nhiều kết quả

Quản lý khá chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt theo kế hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh và các công trình trọng điểm, xử lý nghiêm các vi phạm.

Tập trung tuyên truyền về bảo vệ môi trường, ý thức của Nhân dân về công tác này được nâng lên. Đến nay, 100% cơ sở sản xuất kinh doanh quy mô lớn có hệ thống xử lý nước thải theo quy định; 100% dân cư thành thị và 92% dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. 

Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được thực hiện tốt, giá trị kinh tế rừng từng bước được nâng lên; tỷ lệ che phủ rừng đạt 26% (tăng bình quân 1,6%/năm). 

Xây dựng, tổ chức thực hiện khá tốt các kế hoạch phòng, chống thiên tai, phương án ứng phó thiên tai; thường xuyên khảo sát, đánh giá mức độ an toàn các tuyến đê sông, đê biển và kè biển để triển khai các giải pháp cảnh báo, gia cố, khắc phục sạt lở.

Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai, xây dựng một số nơi chưa chặt chẽ, nhất là quản lý đất lâm nghiệp, đất công chưa đúng quy định. Ô nhiễm môi trường ở một số nơi chưa được kiểm soát hiệu quả; thu gom, xử lý chất thải còn gặp nhiều khó khăn. Triển khai chưa đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, có lúc còn bị động, lúng túng; nguồn lực đầu tư còn ít.

5. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, hoạt động đối ngoại đạt kết quả tốt

Triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, các nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc; làm tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Kiện toàn tổ chức, biên chế lực lượng vũ trang theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; hoàn thành việc bố trí công an chính quy về công tác tại 101/101 xã, phường, thị trấn. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, tuyển quân và giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh; ý thức, trách nhiệm của Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được nâng lên.

Chủ động triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm chủ quyền, giữ vững chủ quyền an ninh biên giới biển, đảo. 

An ninh chính trị tiếp tục giữ vững ổn định, không xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Thực hiện tốt các giải pháp nắm, phát hiện, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình”, kích động, lôi kéo tham gia gây rối của các thế lực thù địch.

Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong bảo đảm trật tự an toàn xã hội khá chặt chẽ; triển khai, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ. Tội phạm về trật tự xã hội giảm, tội phạm và vi phạm về môi trường, vi phạm về kinh tế, ma tuý, tệ nạn xã hội được phát hiện, xử lý kịp thời; tỷ lệ điều tra khám phá án đạt 93%. Số người chết do tai nạn giao thông giảm 5,7%; số vụ cháy giảm 6% so 5 năm trước.

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Hoạt động đối ngoại được mở rộng, tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch với các nước, như: Thái Lan, Campuchia, Lào, Hàn Quốc, Nhật Bản… đạt kết quả bước đầu, góp phần thiết thực phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, chủ trì mời và đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế, trong đó có nhiều đoàn đại biểu cấp cao, đại sứ quán các nước, đến thăm và làm việc với tỉnh. Cử hàng trăm cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác nắm tình hình để phát hiện các vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự có lúc, có nơi chưa kịp thời; tệ nạn ma tuý gia tăng; hoạt động tín dụng đen chưa được ngăn chặn triệt để.

6. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên

Hội đồng Nhân dân các cấp có nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động, ban hành nhiều nghị quyết cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Thực hiện tốt chương trình giám sát, kịp thời kiến nghị xử lý hạn chế, vướng mắc trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế – xã hội. Chất lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp được nâng lên. 

Uỷ ban Nhân dân các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, năng lực lãnh đạo, điều hành và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng lên, một số lĩnh vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã và đang được sắp xếp theo hướng tinh gọn; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được chuẩn hoá phù hợp với chức danh, vị trí việc làm. Các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương, đơn vị được phát động và hưởng ứng tích cực. Công tác khen thưởng có nhiều đổi mới, chú trọng tôn vinh, khuyến khích tập thể, cá nhân trực tiếp lao động sản xuất, kinh doanh, công tác trên các lĩnh vực. 

Triển khai thực hiện khá tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; tình hình tôn giáo và hoạt động của các tổ chức tôn giáo cơ bản ổn định. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

Cải cách tư pháp đạt kết quả quan trọng. Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chất lượng điều tra, truy tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, xét xử và bổ trợ tư pháp được nâng lên, nhiều vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp được xử lý đúng pháp luật; án quá hạn luật định, tình trạng oan, sai, bản án, quyết định bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan được hạn chế đến mức thấp nhất. Thi hành án dân sự có nhiều tiến bộ, số vụ việc còn tồn đọng giảm đáng kể. Cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp được quan tâm đầu tư. 

Hoạt động thanh tra và xử lý sau thanh tra đạt yêu cầu, kịp thời phát hiện, kiến nghị chấn chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi sai phạm. Thực hiện nghiêm túc công tác tiếp dân theo quy định. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được tăng cường; các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài tiếp tục được rà soát, giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết và một số vụ việc đã được giải quyết dứt điểm; khiếu kiện đông người, vượt cấp giảm. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từng bước đi vào chiều sâu. Tỷ lệ hoà giải thành ở cơ sở đạt gần 82%, góp phần hạn chế mâu thuẫn, phát sinh tranh chấp, khiếu kiện trong Nhân dân.

Song, công tác quản lý, điều hành của chính quyền có mặt chưa đạt yêu cầu. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động Hội đồng Nhân dân các cấp chưa đồng đều; chất lượng giám sát hiệu quả thấp. Quản lý Nhà nước về: quy hoạch, trật tự xây dựng, đất đai, môi trường, tôn giáo ở một số nơi chưa tốt. Kỷ cương hành chính của một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, khả năng cụ thể hoá chủ trương, đề xuất việc mới, việc khó mang tính đột phá chưa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp từng lúc thiếu chặt chẽ; giám định tư pháp một số lĩnh vực còn vướng mắc; một số vụ án, vụ việc còn kéo dài, gây dư luận không tốt. Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân một số nơi chưa tốt, còn vụ việc kéo dài.

7. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội có nhiều đổi mới

Các cấp uỷ đảng triển khai và cụ thể hoá thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Năng lực tập hợp quần chúng và vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội được nâng lên, trách nhiệm thể hiện rõ hơn; tập trung hướng mạnh về cơ sở, chăm lo thiết thực đến lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; xây dựng kế hoạch đăng ký giúp đỡ hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo hàng năm; tích cực tập hợp, động viên đoàn viên, hội viên và Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giúp nhau phát triển kinh tế, tham gia thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua, các cuộc vận động, nhất là triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững. Nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền có chuyển biến tốt hơn. 

Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và một số đoàn thể chính trị – xã hội, nhất là ở cơ sở còn nhiều khó khăn; công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện một số chủ trương, nghị quyết chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả thấp; một số phong trào thi đua còn hình thức; kết quả thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội chưa rõ nét.

8. Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh toàn diện, đạt kết quả tích cực

Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức đặc biệt được coi trọng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh với nội dung phong phú và hình thức đa dạng. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết của Đảng được thực hiện có chất lượng và đổi mới. Công tác tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch được thực hiện kịp thời, góp phần phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, quản lý báo chí, xuất bản, văn hoá – văn nghệ được tăng cường. Công tác khoa giáo, nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng và giáo dục, phát huy truyền thống cách mạng được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả; hoàn thành bổ sung hoàn chỉnh lịch sử Đảng bộ tỉnh giai đoạn 1930-2015 và Kỷ yếu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh giai đoạn 1930-2020. 

Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng đã tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém về công tác xây dựng Đảng; sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy chế, quy định để quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hàng năm, cùng với kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên đã bám sát vào các tiêu chí nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII để tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc; sau kiểm điểm tập trung khắc phục những hạn chế, khuyết điểm được chỉ ra, nên đã tạo chuyển biến tích cực trong triển khai thực hiện nhiệm vụ ở từng cấp, từng ngành. 

Lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, Nghị quyết số 02-NQ/TU của Tỉnh uỷ khoá XV về đẩy mạnh học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức, lối sống trong đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đa số cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, đổi mới tác phong, lề lối làm việc và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng được chú trọng, đã tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hầu hết tổ chức cơ sở Đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ có chuyển biến tích cực; đa số đảng viên được phân công nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực hiện đánh giá chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên hàng năm chặt chẽ, đúng quy định. Kết nạp đảng viên đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra, quan tâm chỉ đạo nâng cao về chất lượng đảng viên theo các quy định, chỉ thị của Trung ương; thực hiện nghiêm túc việc giới thiệu đảng viên đương chức về sinh hoạt, giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp uỷ nơi cư trú.

Công tác cán bộ được đổi mới mạnh mẽ. Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành đầy đủ các văn bản để quán triệt, cụ thể hoá thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương về công tác cán bộ; đồng thời, từ thực tiễn của tỉnh đã ban hành một số nghị quyết, đề án như: về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2020-2025 và những nhiệm kỳ tiếp theo; về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số nhiệm kỳ 2015-2020 và những nhiệm kỳ tiếp theo; Đề án đưa trí thức trẻ về công tác ở cơ sở… đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong công tác cán bộ, thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình, quy định, công khai, minh bạch, dân chủ; kiên quyết chống chạy chức, chạy quyền và các tiêu cực khác. Thực hiện đánh giá cán bộ từng bước thực chất hơn, đúng các tiêu chí theo quy định của Trung ương. Chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc quy định về chất vấn trong Đảng, về việc lấy phiếu tín nhiệm và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cán bộ dự nguồn, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 

Thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XII, tỉnh đã triển khai thực hiện sáp nhập Đảng bộ Khối Doanh nghiệp vào Đảng bộ Dân Chính Đảng; sắp xếp tổ chức bộ máy văn phòng các ban đảng của Tỉnh uỷ về Văn phòng Tỉnh uỷ phục vụ chung; giải thể Sở Ngoại vụ, chuyển chức năng về Văn phòng Uỷ ban Nhân dân tỉnh; sáp nhập Ban Dân tộc Hội đồng Nhân dân tỉnh vào Ban Văn hoá – Xã hội Hội đồng Nhân dân tỉnh. Toàn tỉnh đã giảm 87 đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh, cấp huyện; sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên trong các sở, ban, ngành, đoàn thể giảm được 69 phòng, chi cục và giảm 181 lãnh đạo cấp phòng. Thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ không phải là người địa phương, đến nay, tỉnh đã hoàn thành bố trí 9/9 bí thư cấp uỷ huyện không phải là người địa phương; 9/9 đơn vị cấp huyện thực hiện trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Mặt trận Tổ quốc; 6/9 đơn vị cấp huyện trưởng ban tuyên giáo kiêm giám đốc trung tâm chính trị.

Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, tỉnh Cà Mau đã tinh giản 8,53% công chức, viên chức; đến năm 2021 bảo đảm thực hiện tinh giản biên chế đúng quy định. 

Triển khai thực hiện tốt các đề án, kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực của tỉnh, nhất là đội ngũ cán bộ nữ, trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số, đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở trong nước và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước nâng lên, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Thực hiện tuyển dụng, nâng ngạch công chức, viên chức đảm bảo đúng quy định, công khai, dân chủ theo nguyên tắc cạnh tranh. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện thận trọng, chặt chẽ. Quan tâm chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cán bộ; thực hiện kịp thời, đúng quy định các chính sách đối với cán bộ, đảng viên.

Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; chú trọng ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã xây dựng và triển khai thực hiện nghiêm túc chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hằng năm và các cuộc kiểm tra theo sự chỉ đạo của cấp trên, bám sát các nhiệm vụ chính trị trọng tâm, các lĩnh vực trọng yếu, nhạy cảm, được dư luận quan tâm ; thực hiện tốt giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức đảng và đảng viên; thi hành kỷ luật trong Đảng nghiêm túc, đúng nguyên tắc; đã kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, hạn chế vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên.

Công tác dân vận của hệ thống chính trị đạt kết quả tích cực. Phương pháp, nội dung công tác dân vận có nhiều đổi mới, hiệu quả được nâng lên. Cùng với triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, các cấp uỷ đảng, chính quyền đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác dân vận. Công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang có nhiều chuyển biến tốt hơn; thực hiện nghiêm quy chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân theo quy định; thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, giải quyết các kiến nghị của người dân và doanh nghiệp. Hệ thống dân vận các cấp chủ động nắm tình hình cơ sở, tình hình Nhân dân, tham mưu cho cấp uỷ đảng, chính quyền giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp phát sinh, những khó khăn, vướng mắc tại địa phương, đơn vị. 

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, với nhiều giải pháp quyết liệt, mạnh mẽ và với quyết tâm chính trị cao, đạt nhiều kết quả quan trọng; các giải pháp phòng ngừa tham nhũng được đẩy mạnh, nhất là thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh, công khai tổ chức, cá nhân vi phạm. Tham nhũng được kiềm chế, ngăn chặn. 

Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng tiếp tục được đổi mới, quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tăng cường phân cấp, phân nhiệm. Hầu hết các cấp uỷ xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và phát huy vai trò, trách nhiệm của chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu. Việc cụ thể hoá, triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng ngày càng thiết thực, khả thi. Các cấp uỷ phân công thường vụ, cấp uỷ viên phụ trách địa bàn và tham gia sinh hoạt chi bộ ở ấp, khóm, góp phần đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị. 

Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng còn một số hạn chế:

Chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng của một số cấp uỷ, tổ chức đảng còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tự giác và nghiêm túc học tập nghị quyết của Đảng. Công tác dự báo, nắm tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội có việc chưa nhạy bén, thiếu kịp thời. 

Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khoá XII và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ở một số nơi chưa trở thành việc làm thường xuyên, tự giác của cán bộ, đảng viên; gương điển hình trên các lĩnh vực, địa bàn và sức lan toả còn ít. Tính tiền phong, gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên thể hiện chưa rõ, trong đó có người đứng đầu cơ quan, đơn vị năng lực hạn chế, chủ quan trong thực hiện nhiệm vụ, để xảy ra sai sót, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật. 

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế; chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ ở loại hình cơ quan, doanh nghiệp còn thấp. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn tình trạng đảng viên suy thoái, vi phạm. Một số cấp uỷ chỉ đạo, thực hiện công tác tổ chức, cán bộ có trường hợp chưa đúng quy trình, quy định. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ trong cấp uỷ, trong lãnh đạo các ngành, địa phương còn thấp. Đánh giá cán bộ ở một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chưa thực chất; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình ở một số nơi còn yếu. 

Chất lượng, hiệu quả một số cuộc kiểm tra, giám sát còn thấp, chưa chú trọng phòng ngừa sai phạm. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát công tác dân vận. Công tác tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn là khâu yếu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của một số cấp uỷ đảng chưa thực sự hiệu quả.

III- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ NGUYÊN NHÂN 

1. Đánh giá tổng quát

5 năm qua, nắm bắt thời cơ, thuận lợi; vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, Đảng bộ, dân và quân tỉnh nhà đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020 đạt được kết quả khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá, thực hiện các khâu đột phá đạt kết quả tích cực, một số công trình trọng điểm, then chốt hoàn thành đưa vào sử dụng tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội; chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên; cải cách hành chính có chuyển biến rõ nét. Văn hoá – xã hội có nhiều tiến bộ; an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, dịch bệnh được coi trọng. Quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững ổn định. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt, đạt kết quả toàn diện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm, tạo nhiều chuyển biến tích cực; sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ được củng cố, phát huy; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân được nâng lên. 

Tuy nhiên, kết quả đạt được ở một số lĩnh vực chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Còn 7 chỉ tiêu nghị quyết đề ra chưa đạt; quy mô kinh tế còn nhỏ; năng suất lao động còn thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; sản xuất ngư, nông nghiệp thiếu bền vững; hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn còn khó khăn; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; quản lý Nhà nước về quy hoạch, xây dựng, đất đai, môi trường có nơi chưa tốt; chất lượng hoạt động của một số tổ chức trong hệ thống chính trị có mặt còn hạn chế… 

2. Nguyên nhân

2.1. Nguyên nhân đạt được

Những kết quả đạt được 5 năm qua có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh nhà đã kế thừa và phát huy có hiệu quả những kết quả của nhiều nhiệm kỳ đại hội trước; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc, hiệu quả của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự phối hợp, ủng hộ, giúp đỡ của các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh bạn; Trung ương, địa phương ban hành nhiều chủ trương, chính sách đột phá kịp thời tháo gỡ khó khăn, các cấp, các ngành tập trung cụ thể hoá, triển khai, quán triệt đến cơ sở và tuyên truyền, vận động trong Nhân dân sát hợp, kịp thời, được đồng tình ủng hộ cao, tạo chuyển biến tích cực trong hành động. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là tinh thần đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội và Nhân dân, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; sự quản lý, điều hành quyết liệt của chính quyền các cấp; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của Nhân dân.

2.2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

Những hạn chế, khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua có nguyên nhân khách quan do: ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, hạn hán, giá cả một số hàng hoá chủ lực không ổn định, đặc biệt do dịch tả heo châu Phi, đại dịch Covid-19, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh, đầu tư, xây dựng và đời sống của Nhân dân. Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa đồng bộ, nhất là các quy định pháp luật về đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường… gây khó khăn trong triển khai, thực hiện. Song, trực tiếp và quyết định là do nguyên nhân chủ quan.

Trước hết, việc nhận định, dự báo, xác định mục tiêu, định hướng phát triển không lường hết được những khó khăn, thách thức, rủi ro phát sinh, nên chọn phương án tăng trưởng khá cao. Tuy nhiên, quá trình thực hiện nghị quyết chưa xuất hiện những yếu tố tạo ra sự bứt phá theo dự báo từ đầu nhiệm kỳ (như: Cảng biển tổng hợp Hòn Khoai, Dự án điện gió Khai Long, Khu kinh tế Năm Căn, phát triển các khu đô thị, các dự án nâng cấp quốc lộ), dẫn đến một số chỉ tiêu, nhiệm vụ nghị quyết đề ra không đạt.

Thứ hai, việc quán triệt, nhận thức một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước (nhất là chủ trương, chính sách mới) ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa sâu sắc, toàn diện, thiếu thống nhất. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; chưa chủ động, thiếu sáng tạo và quyết liệt trong tổ chức thực hiện, làm cho một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh chậm được thực hiện, hiệu quả chưa cao.

Thứ ba, công tác lãnh đạo, điều hành của một số cấp uỷ, chính quyền, thủ trưởng các ngành, các cấp có lúc, có nơi thiếu quyết tâm, còn thụ động, trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm, chưa bám chặt địa bàn, chậm chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vấn đề phức tạp, bức xúc. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ. Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện từng lúc chưa thường xuyên.

Thứ tư, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ; chấp hành kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, thậm chí có trường hợp sai phạm bị xử lý kỷ luật. Một số hạn chế, yếu kém từ nhiệm kỳ trước, kéo dài nhiều năm nhưng chỉ đạo giải quyết, khắc phục chưa triệt để.

IV- BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Phải xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu các cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị gắn với giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng.

2. Phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và cấp uỷ các cấp; khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; xác định Nhân dân vừa là trung tâm, vừa là chủ thể, động lực của sự nghiệp đổi mới, mọi chủ trương, chính sách phải thật sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; huy động sự chung sức, đồng lòng của Nhân dân hướng vào xây dựng quê hương, đất nước.

3. Phải vận dụng sáng tạo, cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Trung ương sát thực tế của địa phương; chủ động dự báo đúng tình hình; ban hành các chủ trương, chính sách đồng bộ, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; kiên trì mục tiêu, bám sát phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định.

4. Giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế – xã hội gắn kết chặt chẽ với đảm bảo quốc phòng, an ninh và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.

Phần thứ hai
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 5 NĂM 2020-2025

Những năm tới, hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng lớn trên thế giới; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc, vừa tạo thời cơ, vừa đặt ra nhiều thách thức đối với các quốc gia; chiến tranh thương mại, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực, nhất là ở biển Đông diễn ra phức tạp hơn. Đất nước ta sau gần 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng cao. Tuy nhiên, nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động của đại dịch Covid-19, khả năng tăng trưởng kinh tế dự báo sẽ đạt ở mức thấp trong những năm đầu giai đoạn 2021-2025; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, nặng nề; bên cạnh đó, 4 nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn; các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. 

Trong tỉnh, cùng với những kết quả quan trọng đạt được sau hơn 20 năm tái lập tỉnh đã từng bước tạo ra những nền tảng vững chắc trong những năm tới; tiềm năng, lợi thế tiếp tục được phát huy ngày càng tốt hơn; chủ trương của Trung ương về xây dựng tuyến cao tốc Cần Thơ – Cà Mau và nâng cấp, mở rộng sân bay Cà Mau, cùng với những nỗ lực của tỉnh trong phát triển giao thông đối nội, đối ngoại và một số yếu tố lợi thế như: về phát triển kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch… sẽ tạo ra những động lực mới cho sự phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, những khó khăn, yếu kém trong nội tại nền kinh tế, như: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của các sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; là tỉnh vùng đồng bằng, có diện tích ven biển rộng, đã và đang chịu tác động rất nặng nề của biến đổi khí hậu và thiên tai, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tỉnh.
Bối cảnh nêu trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, sức sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, nỗ lực phấn đấu để phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

 I- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

Tiếp tục thực hiện toàn diện, đồng bộ đường lối đổi mới của Đảng. Xây dựng tỉnh Cà Mau phát triển nhanh, bền vững; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống hiệu quả dịch bệnh.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ, đoàn kết, kỷ cương; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên toàn tâm, toàn ý, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Vận dụng sáng tạo, linh hoạt các cơ chế, chính sách, các nguồn lực trong và ngoài tỉnh, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, chuyển hoá thách thức thành cơ hội phát triển; thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; phát triển hài hoà, hợp lý giữa các vùng trong tỉnh, thu hẹp dần khoảng cách và mức sống giữa các khu vực dân cư.
Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng, ý chí tự cường; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

II- MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN

1. Mục tiêu tổng quát

Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phát huy đoàn kết, dân chủ, đồng thuận trong nhân dân; tiếp tục khơi dậy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển. Khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, nhất là kinh tế biển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư; không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bảo đảm quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; xây dựng tỉnh Cà Mau phát triển nhanh, bền vững.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

 Về kinh tế:

 (1) Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) giai đoạn 2021-2025 bình quân tăng 6,5-7%/năm; GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 77 triệu đồng (tương đương 3.320 USD).

(2) Cơ cấu kinh tế: ngư, nông, lâm nghiệp chiếm 28,7%; công nghiệp, xây dựng chiếm 35%; dịch vụ chiếm 32,5%; thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 3,8%.

(3) Tổng vốn đầu tư xã hội bình quân hàng năm giai đoạn 2021-2025 chiếm 30% GRDP trở lên.

(4) Tỷ lệ đô thị hoá đạt 31%.

Về văn hoá – xã hội:

(5) Tỷ lệ lao động khu vực ngư, nông, lâm nghiệp giảm còn 40%.

(6) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60% trở lên, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ 27% trở lên.

(7) Giải quyết việc làm bình quân giai đoạn 2021-2025 khoảng 40.000 người/năm.

(8) Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm tối thiểu 0,5%/năm.

(9) Số giường bệnh/vạn dân khoảng 33 giường.  

(10) Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 97%.

(11) Tỷ lệ số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 80%, trong đó có 20% đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; có từ 2 huyện trở lên đạt chuẩn nông thôn mới.

Về môi trường:

(12) Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt trên 95%.

(13) Tỷ lệ rác thải đô thị và khu, cụm công nghiệp được thu gom xử lý đạt 90%.

(14) Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%.

(15) Tỷ lệ che phủ rừng đạt 27%.

Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

(16) Phấn đấu mỗi năm kết nạp từ 1.000 đảng viên; có 90% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương đạt 85% trở lên. 

3. Định hướng đến năm 2030

– Kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững. Quy mô nền kinh tế tăng gấp 1,5.

– GRDP bình quân đầu người tương đương với bình quân chung của cả nước.

II- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

1. Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế 

1.1. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh

Tập trung lập và triển khai thực hiện quy hoạch tỉnh Cà Mau giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định của Luật Quy hoạch, đảm bảo phù hợp với phát triển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đặc thù của tỉnh Cà Mau và những định hướng lớn mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra.

Triển khai, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Trung ương về khắc phục ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế. Xác định rõ các cơ hội và thách thức, nâng cao năng lực nội tại và sức cạnh tranh trước những khó khăn của nền kinh tế; khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là lĩnh vực còn tiềm năng phát triển để thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế. Chú trọng chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, ưu tiên phát triển chiều sâu; chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Sử dụng toàn diện và hiệu quả các nguồn lực, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của Nhân dân. 

Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp đạt kết quả toàn diện hơn, trọng tâm là thực hiện tốt các giải pháp phát triển các ngành hàng chủ lực của tỉnh, khai thác tối đa nội lực nhằm tạo giá trị gia tăng mạnh lĩnh vực ngư, nông, lâm nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tập trung thực hiện Đề án nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững ngành tôm; Đề án khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Quy hoạch, phát triển vùng nuôi thuỷ sản nước ngọt; nuôi tôm sinh thái và từng bước phát triển nuôi ven biển, ven sông ở những nơi có điều kiện. Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các trại giống thuỷ sản, tiến tới đáp ứng phần lớn nhu cầu con giống trong tỉnh. Phát triển nông nghiệp hàng hoá, quy mô lớn, chất lượng, hiệu quả và bền vững, thích ứng với thay đổi của điều kiện tự nhiên và thị trường, gắn với chế biến, tiêu thụ các sản phẩm có lợi thế như: lúa chất lượng cao; keo lai và chuối; nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm sinh thái, cua biển. Chủ động thực hiện chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản trên các diện tích đất lúa không chủ động nước, trồng lúa kém hiệu quả. Đẩy mạnh cơ giới hoá đồng bộ sản xuất nông nghiệp, nhất là khâu thu hoạch và sau thu hoạch nhằm nâng cao năng suất lao động và giảm thất thoát nông sản.
 Huy động nguồn lực từng bước đầu tư hoàn thiện hạ tầng phục vụ sản xuất, nhất là hệ thống thuỷ lợi phải phù hợp với sản xuất của từng vùng, tiểu vùng, đa mục tiêu để phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, cung cấp nước để người dân sinh hoạt và sản xuất. Có giải pháp đột phá hỗ trợ nông dân về đầu vào sản xuất và sản phẩm đầu ra, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Phấn đấu đến năm 2025, tổng sản lượng thuỷ sản 5 năm đạt 3,3 triệu tấn, bình quân tăng 3%/năm; tổng sản lượng lúa 2,7 triệu tấn, bình quân tăng 0,4%/năm.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; tổ chức lại sản xuất trong khai thác thuỷ sản theo hướng hiệu quả, bền vững, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và không vi phạm vùng biển các nước. Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư hạ tầng phục vụ khai thác biển, nhất là các cảng biển, khu hậu cần nghề cá ở các cửa biển Sông Đốc, Cái Đôi Vàm, Khánh Hội, Rạch Gốc, Tân Thuận…

Quy hoạch, phát triển các trang trại chăn nuôi tập trung, quy mô lớn, tăng tỷ trọng lĩnh vực chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, từng bước đảm bảo nhu cầu thực phẩm từ sản phẩm gia súc, gia cầm trong tỉnh. Bên cạnh tiếp tục hỗ trợ trồng trọt quy mô lớn, hình thành các trang trại, tích cực vận động Nhân dân cải tạo vườn tạp, tận dụng bờ vuông trồng rau màu, nâng cao thu nhập.

Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là tạo điều kiện các doanh nghiệp trồng rừng, chế biến các sản phẩm gỗ; có giải pháp tích cực tháo gỡ vướng mắc trong quản lý, khai thác rừng; tiếp tục sắp xếp lại các công ty lâm nghiệp.

Phát triển công nghiệp tập trung vào những ngành tỉnh có thế mạnh, như chế biến nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển mạnh sang sản xuất mặt hàng mới, giá trị gia tăng cao; phát huy hài hoà lợi ích nông dân và doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Trung ương về phát triển công nghiệp quốc gia, về phát triển năng lượng quốc gia, trọng tâm phát triển công nghiệp năng lượng, hoá chất; quan tâm hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai các dự án điện gió đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư và tiếp tục thu hút đầu tư phát triển năng lượng tái tạo (điện sinh khối, điện gió, điện mặt trời). Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp và Khu Kinh tế Năm Căn để mời gọi đầu tư.

Tích cực xúc tiến đầu tư, thu hút các dự án đầu tư phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị, các loại hình dịch vụ logistics, chợ đầu mối, chợ trung tâm, chợ nông thôn, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – phân phối. Tăng cường trao đổi ngoại thương với các thị trường truyền thống, chú trọng mở rộng thị trường với các nước đã ký kết hiệp định thương mại tự do với Việt Nam. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng giảm dần mặt hàng sơ chế, đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng tinh chế, có giá trị gia tăng cao. Phấn đấu 5 năm kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD.

Dịch vụ vận tải tập trung phát triển cả đường bộ và đường thuỷ; có giải pháp hiệu quả tránh ùn tắc giao thông, tình trạng ngập nước tại các nội ô; tranh thủ đầu tư mở rộng, nâng cấp, khai thác hiệu quả Sân bay Cà Mau. Phát triển mạng lưới bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin; xây dựng và triển khai thực hiện chính quyền số đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số hỗ trợ cho phát triển kinh tế – xã hội và điều hành quản lý Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi các dịch vụ như bảo hiểm, y tế… phát triển.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Trung ương về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; có cơ chế, chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư phát triển du lịch, ưu tiên thu hút các dự án du lịch quy mô lớn, có tính chiến lược. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch Cà Mau phù hợp với quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam và chiến lược phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long theo hướng tập trung phát triển các khu vực có nhiều tiềm năng và động lực để phát triển du lịch. Ưu tiên nguồn lực để đầu tư xây dựng, mở rộng hệ thống giao thông đồng bộ và kết nối đến các khu, điểm du lịch trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện có; tiếp tục mở rộng liên kết tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn, đẳng cấp cao; xây dựng hình ảnh du lịch Cà Mau “An toàn – thân thiện – chất lượng”, gắn liền với vị trí địa lý là điểm cực Nam của Tổ quốc cùng với các hoạt động mang đậm nét văn hoá địa phương.

1.2. Phát triển các thành phần kinh tế, khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khởi nghiệp

Phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, kinh doanh. Triển khai kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khuyến khích thu hút các nhà đầu tư có quy mô lớn, đảm bảo khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, trọng tâm là khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các loại hình kinh tế tập thể, trọng tâm là hợp tác xã; tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.

1.3. Tăng cường hợp tác, liên kết vùng 

Có giải pháp đột phá hợp tác, liên kết phát triển kinh tế – xã hội với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long và các đơn vị, địa phương theo các nội dung đã ký kết nhằm phát huy vị thế, vai trò là địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long, đóng góp chung vào sự phát triển của toàn vùng.

1.4. Đổi mới quản lý tài chính, ngân sách, tín dụng 

Cơ cấu lại thu, chi ngân sách Nhà nước phù hợp theo hướng tập trung chi đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng chi thường xuyên, đảm bảo chi cho con người, chi đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước, tập trung các giải pháp phát triển nguồn thu, chống thất thu và xử lý vi phạm, gian lận và nợ đọng thuế, phấn đấu từng bước cân đối chi thường xuyên. Phấn đấu thu ngân sách Nhà nước 5 năm 32.800 tỷ đồng. Có giải pháp bảo đảm tăng trưởng tín dụng hợp lý gắn với nâng cao chất lượng tín dụng.

1.5. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiệu quả

Tập trung đầu tư xây dựng và tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển. Triển khai thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm (2021 – 2025), đảm bảo đầu tư có trọng tâm, trọng điểm theo thứ tự ưu tiên và khả năng cân đối nguồn lực. Phối hợp với bộ, ngành Trung ương  và địa phương có liên quan sớm triển khai dự án tuyến cao tốc Cần Thơ – Cà Mau; dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A; dự án nâng cấp, mở rộng sân bay Cà Mau. Tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn vốn của các thành phần kinh tế đầu tư kết cấu hạ tầng theo hình thức đối tác công – tư (PPP); đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực: giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường… 

Tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đảm bảo tính kết nối và năng lực vận tải cao. Đối với các tuyến giao thông ngoại tỉnh (đường thuỷ và đường bộ), tranh thủ nguồn vốn đầu tư đẩy nhanh hoàn thành các tuyến đường theo lộ trình được phê duyệt tại Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 15/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với các tuyến giao thông nội tỉnh, xác định những tuyến, trục chính để tập trung đầu tư nâng cấp nâng cao tải trọng; hình thành các tuyến đường hành lang ven biển, vừa đảm bảo phát triển kinh tế, vừa đảm bảo quốc phòng. Quy hoạch cảng biển có công suất lớn tại vị trí thuận lợi để mời gọi các nhà đầu tư. Duy trì và phát triển phong trào làm đường giao thông nông thôn, đảm bảo mục tiêu hoàn thiện cơ bản mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn, 100% tuyến đường huyện, đường xã vào cấp kỹ thuật, được nhựa hoá hoặc bê-tông hoá. Quan tâm duy tu, sửa chữa cầu, đường giao thông; tuyên truyền, vận động Nhân dân tích cực tham gia quản lý, bảo trì, gia cố chống sạt lở các tuyến đường giao thông nông thôn.

Quy hoạch, từng bước đầu tư hạ tầng giáo dục, y tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của Nhân dân trong mục tiêu phát triển bền vững. Tập trung xây mới và nâng chất các trường đạt chuẩn quốc gia; đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học, sinh hoạt của học sinh, giáo viên theo hướng giáo dục toàn diện. Nâng cấp Bệnh viện Đa khoa Cà Mau và đầu tư xây dựng mới một số bệnh viện chuyên ngành; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các bệnh viện khu vực và các trạm y tế, nhằm đảm bảo tốt hơn công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân. Xây dựng, khai thác tốt các thiết chế văn hoá, nhất là ở cơ sở. 

1.6. Tích cực xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh

Tiếp tục huy động cả hệ thống chính trị và Nhân dân thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đảm bảo thực chất, toàn diện; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; xây dựng hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn từng bước đồng bộ, hiện đại, gắn với quá trình đô thị hoá, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; đảm bảo môi trường cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn. Duy trì nâng cao chất lượng các xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Quan tâm đầu tư 3 đô thị động lực: thành phố Cà Mau, thị trấn Sông Đốc, thị trấn Năm Căn, các đô thị ven biển và các đô thị nhỏ phù hợp với chương trình phát triển đô thị được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Phát triển đô thị gắn liền với quản lý quy hoạch và quản lý kiến trúc đô thị, chấm dứt tình trạng xây dựng nhà không đúng quy định ở các đô thị. Có giải pháp hiệu quả đầu tư xây dựng nhà ở cho người thu thập thấp. Phấn đấu đến năm 2025, thành phố Cà Mau đạt tiêu chí đô thị loại I; tỷ lệ đô thị hoá toàn tỉnh đạt 31%. 

1.7. Phát triển kinh tế biển nhanh, bền vững

Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tập trung nguồn lực xây dựng tỉnh Cà Mau trở thành địa phương phát triển mạnh về biển; đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội các huyện ven biển, kết nối các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp, tạo điều kiện phát triển kinh tế biển, ven biển; ưu tiên đầu tư có trọng điểm các ngành kinh tế biển quan trọng như: thuỷ sản, du lịch và dịch vụ biển, công nghiệp, năng lượng tái tạo, vận tải biển… Phấn đấu đến năm 2025 đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; các ngành kinh tế biển, thuần biển đóng góp khoảng 30-35% tổng thu ngân sách của tỉnh. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội vùng biển, ven biển với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh.

2. Quản lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu

Thực hiện tốt hơn công tác quản lý đất đai, trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hoàn thành công tác xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính; hiện đại hoá dịch vụ công về đất đai. Quản lý chặt chẽ đất công, đất lâm nghiệp; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm các vi phạm, tranh chấp, lấn chiếm đất đai, đảm bảo đúng quy định pháp luật. 

Tăng cường tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường; đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, bảo đảm môi trường sản xuất, môi trường sống an toàn của người dân. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên và môi trường, chú trọng đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt tập trung tại thành phố Cà Mau, các đô thị và xử lý chất thải đối với các khu kinh tế, khu công nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nhất là địa bàn nông thôn; đầu tư trang thiết bị để thu gom, xử lý triệt để chất thải rắn y tế; khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch hành động tăng trưởng xanh để đảm bảo phát triển bền vững.

Chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu và Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động có các phương án thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai; quy hoạch, bố trí lại dân cư khu vực sạt lở nguy hiểm, bảo đảm an toàn cho người dân. Quan tâm đầu tư khắc phục tình trạng sạt lở tại các bờ biển Tây và bờ biển Đông nhằm hạn chế tác động với biến đổi khí hậu.

3. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ

Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo; chú trọng phát triển giáo dục ngoài công lập. Phấn đấu đến năm 2025, hệ thống giáo dục và đào tạo của tỉnh được chuẩn hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu đổi mới nền giáo dục của nước nhà. Đào tạo con người có đạo đức, kỷ luật, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội, có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế. Duy trì và nâng cao chất lượng trường học đạt chuẩn quốc gia; chất lượng phổ cập giáo dục. Phấn đấu 5 năm 100% các trường đạt chuẩn cơ sở vật chất tối thiểu và có thêm 100 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia; 3 đơn vị cấp huyện có 100% trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo, xây dựng xã hội học tập, đa dạng hoạt động khuyến học, khuyến tài, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, địa bàn còn khó khăn. 

Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế và gắn với nhu cầu sử dụng của tỉnh và doanh nghiệp. Có cơ chế, chính sách phù hợp đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ phát triển. 

Đa dạng hoá loại hình đào tạo nghề; nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề gắn với tạo việc làm, chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nghề trình độ cao, công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh. 

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, đời sống để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hoá và hiệu quả của nền kinh tế. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Thực hiện đồng bộ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Tăng cường quản lý Nhà nước về khoa học, công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng.

Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thúc đẩy tăng trưởng, ứng dụng, phát triển mạnh mẽ kinh tế số, nhất là công nghệ viễn thông thế hệ mới, công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước, kinh doanh, dịch vụ; tiếp tục thực hiện xây dựng chính quyền điện tử và nghiên cứu định hướng phát triển đô thị thông minh. 

4. Phát triển văn hoá – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân

Đổi mới nội dung, phương thức đầu tư cho phát triển văn hoá theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng con người Cà Mau phát triển toàn diện cả về nhân cách, đạo đức, trí tuệ “thân thiện, nhân ái, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập”, ý thức tuân thủ pháp luật cao. Đẩy mạnh phòng, chống tệ nạn xã hội, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững của dân tộc, của địa phương.

Phát huy hiệu quả các thiết chế văn hoá; xây dựng, nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá tiêu biểu gắn với xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Quan tâm đầu tư, nâng cấp các công trình di tích lịch sử. Phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao quần chúng; từng bước phát triển thể thao thành tích cao. Đẩy mạnh các hoạt động văn học – nghệ thuật cả chiều rộng lẫn chiều sâu, vừa mang tính hiện đại, vừa đậm đà bản sắc của vùng cực Nam Tổ quốc. Khuyến khích xã hội hoá hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật. 

Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, thông tin tuyên truyền. Làm tốt công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh quê hương và con người Cà Mau. Tăng cường quản lý thông tin trên mạng xã hội, xử lý nghiêm những trường hợp đưa tin sai sự thật, gây hoang mang trong Nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng, Nhà nước. 

Triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách đối với người có công, bảo đảm người có công và gia đình người có công có mức sống từ trung bình trở lên so với địa bàn nơi cư trú. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc, bảo vệ trẻ em, bình đẳng giới và phòng, chống tệ nạn xã hội; chăm lo và phát huy vai trò người cao tuổi, người có uy tín trong cộng đồng. 

Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân và dân số – kế hoạch hoá gia đình. Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất; ứng dụng khoa học công nghệ, hiện đại hoá các trang thiết bị y tế từ tỉnh đến cơ sở. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Thực hiện đúng hướng, hiệu quả xã hội hoá trong lĩnh vực y tế, đảm bảo bình đẳng giữa y tế Nhà nước và y tế ngoài Nhà nước, xây dựng, phát triển mô hình bác sĩ gia đình. Mở rộng, nâng cao chất lượng mô hình bệnh viện vệ tinh và phát triển một số cơ sở y tế kỹ thuật cao theo hướng chuyên sâu, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế chất lượng cao nhằm nâng cao hơn nữa sức khoẻ, thể chất và tuổi thọ Nhân dân. Phấn đấu đến năm 2025 Bệnh viện Đa khoa Cà Mau, Bệnh viện Sản – Nhi tỉnh đạt tiêu chuẩn bệnh viện hạng I theo quy định của Bộ Y tế; có 100% trạm y tế xã hoạt động theo nguyên lý bác sĩ gia đình. Thực hiện tốt nghị quyết của Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, phấn đấu đến năm 2025 tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 97%; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa tầng, hiện đại, đa dạng mức đóng và mức hưởng. 

Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, chủ động phòng ngừa, ứng phó kịp thời, hiệu quả khi có dịch bệnh xảy ra. Duy trì mức sinh hợp lý, tiến tới cân bằng giới tính. Tăng cường quản lý Nhà nước về y tế, trong đó đẩy mạnh phân cấp cho các tuyến y tế, quản lý chặt chẽ các cơ sở kinh doanh về an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, hành nghề y tế tư nhân, xử lý tốt về môi trường trong các hoạt động y tế. Quan tâm công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

5. Tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội

Triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, luyện tập, diễn tập và công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng; thực hiện hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng toàn dân, chính sách Quân đội và hậu phương Quân đội; hàng năm hoàn thành 100% chỉ tiêu về công tác tuyển, chọn thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội. Củng cố, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện và tuyến phòng thủ ven biển vững chắc. 

Không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh. Xây dựng lực lượng quân đội thường trực “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng huy động khi có tình huống xảy ra; lực lượng dân quân, tự vệ theo hướng vững mạnh, rộng khắp, kịp thời tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, giảm nhẹ thiệt hại, khắc phục hậu quả khi có các sự cố xảy ra.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong bảo đảm an ninh, trật tự. Nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác, trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Tập trung giải quyết các yếu tố tiềm ẩn phức tạp về an ninh, trật tự; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá, tư tưởng, an ninh thông tin, sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, đấu tranh, phòng chống hiệu quả với các loại tội phạm, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn.

6. Triển khai đồng bộ, hiệu quả hoạt động đối ngoại

Tăng cường công tác đối ngoại của cấp uỷ, ngoại giao chính quyền và các hoạt động đối ngoại Nhân dân; xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vận động cộng đồng người Cà Mau định cư ở nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh, tích cực tham gia đóng góp xây dựng quê hương. Tích cực tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, thành tựu của tỉnh ra ngoài nước. Quản lý chặt chẽ các nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ.

7. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền; cải cách hành chính, cải cách tư pháp

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định để làm tốt vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chú trọng về chất lượng chuyên môn, năng lực hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân, phát huy tốt vai trò của đại biểu Hội đồng Nhân dân tham gia hoạch định các cơ chế, chính sách, quyết định có hiệu quả các vấn đề quan trọng của địa phương. Đa dạng hoá các hình thức giám sát, lựa chọn nội dung giám sát phù hợp, trọng tâm nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội mà cử tri quan tâm. Lãnh đạo và tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. 

Nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của Uỷ ban Nhân dân các cấp trên tất cả các lĩnh vực; không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp quản lý theo hướng thiết thực, sát cơ sở, gần dân gắn với tăng cường công tác dân vận chính quyền. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai mạnh mẽ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trong giải quyết thủ tục hành chính hướng tới sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước; xây dựng và triển khai chính quyền số đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở; triển khai, thực hiện chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 để hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số”.

Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp các cấp theo các nghị quyết của Trung ương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan Nhà nước chuẩn hoá theo đề án vị trí việc làm. Chú trọng xây dựng văn hoá công vụ; đổi mới tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức, đảm bảo khoa học, dân chủ, trách nhiệm, chuyên nghiệp, sâu sát cơ sở, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Thực hiện đúng, có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và kinh phí đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. 

Lãnh đạo thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, tôn giáo. Đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Vận động đồng bào tôn giáo, các chức sắc, chức việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phối hợp lồng ghép các chương trình, dự án nhằm huy động nhiều nguồn lực để triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; nâng cao đời sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số. Phát động mạnh mẽ các phong trào thi đua gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; khen thưởng kịp thời, đúng thực chất, chú trọng tập thể, cá nhân trực tiếp lao động, sản xuất.

Tiếp tục thực hiện đồng bộ chiến lược cải cách tư pháp; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; không để oan, sai, bỏ lọt tội phạm; thực hiện tốt hơn cơ chế giám sát của Hội đồng Nhân dân và của các cơ quan chức năng đối với hoạt động tư pháp. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và Nhân dân; thực hiện tốt hoà giải ở cơ sở. Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng theo quy định.

8. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân  

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội trong thực hiện chính sách đại đoàn kết. Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức cán bộ, năng lực đại diện, đoàn kết tập hợp đoàn viên, hội viên và Nhân dân trong tình hình mới. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng rõ việc, rõ nội dung, sát cơ sở, bám sát vào nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trong giám sát, phản biện xã hội; tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc tại cơ sở. Coi trọng tuyên truyền nhân tố mới, điển hình tiên tiến, đa dạng hoá các hình thức giáo dục, tập hợp, thu hút hội viên, đoàn viên. Quan tâm đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, đoàn viên, động viên các tầng lớp Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, trọng tâm là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Coi trọng xây dựng tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp vững mạnh.

Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị tư tưởng, lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống văn hoá lành mạnh cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện để thanh thiếu niên học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

9. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh

Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác chính trị tư tưởng phù hợp đối tượng, sát cơ sở; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng nắm bắt, xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập lý luận chính trị; quan tâm bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng sống phù hợp với đối tượng. Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng, lịch sử truyền thống cách mạng. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố niềm tin vững chắc của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII của Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chống tham nhũng, lãng phí, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị; xây dựng văn hoá trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; văn hoá, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trong từng cấp uỷ, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong mỗi cán bộ, đảng viên.

Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; có giải pháp hiệu quả, tạo chuyển biến tích cực trong tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ; lựa chọn, bố trí những cán bộ thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết, thật sự vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan của hệ thống chính trị. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Kiên quyết, kịp thời sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức, cho thôi việc đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc kém hiệu quả, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, không gương mẫu về phẩm chất đạo đức, uy tín thấp…

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Chú trọng công tác phát triển đảng viên, đảm bảo chất lượng. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.  

Lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện toàn diện, có chất lượng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm, địa phương, đơn vị có nhiều vụ việc bức xúc, nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm. Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm các tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm; xử lý đúng trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra các sai phạm. Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo cán bộ, đảng viên, đảm bảo công minh, chính xác, kịp thời. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Quan tâm kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của hệ thống chính trị. Triển khai, cụ thể hoá kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Thực hiện có hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước; công tác dân vận của lực lượng vũ trang; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Nắm chặt địa bàn, cơ sở, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. 

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác  phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các giải pháp về phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Chú trọng thanh tra, kiểm tra đối với các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng; xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng; xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương trực tiếp quản lý. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, không buông lỏng lãnh đạo nhưng cũng không bao biện, làm thay. Xây dựng quy chế làm việc của cấp uỷ phải xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới việc ban hành, triển khai chủ trương, nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ; nghị quyết ban hành phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi. Thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Không ngừng đổi mới phong cách, lề lối làm việc theo hướng dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, làm việc có chương trình, kế hoạch, nói đi đôi với làm. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục những rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.

IV- NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ

1. Những nhiệm vụ trọng tâm

(1) Tăng cường xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị.

(2) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ. Tập trung khắc phục tác động của dịch bệnh Covid-19, đẩy mạnh phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Xây dựng giải pháp đồng bộ để tạo đột phá những lĩnh vực tỉnh có thế mạnh, như: kinh tế biển, năng lượng tái tạo, dịch vụ, du lịch… Huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ. 

(3) Xây dựng con người phát triển toàn diện cả về đạo đức, nhân cách, trí tuệ, năng lực làm việc, đổi mới sáng tạo. Tích cực đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, yêu nước, cần cù, sáng tạo của Nhân dân Cà Mau. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Thực hiện tốt chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo người có công, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ người lao động.

(4) Bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn sự bình yên của Nhân dân; thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân và đối thoại với công dân; kịp thời giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân và những vấn đề bức xúc mới nảy sinh ngay tại cơ sở.

(5) Phát huy mạnh mẽ dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân. Tập hợp rộng rãi các tầng lớp Nhân dân, tạo đồng thuận xã hội, đoàn kết thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.   

2. Các đột phá phát triển

(1) Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trọng tâm là tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong cải cách thủ tục hành chính; sắp xếp kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức kỷ cương, trách nhiệm, tận tuỵ, chuyên nghiệp.

(2) Tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Tập trung đầu tư phát triển rõ nét các đô thị động lực: thành phố Cà Mau, thị trấn Sông Đốc, thị trấn Năm Căn; một số công trình trọng điểm về giao thông, du lịch.

(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu phát triển.

***

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XVI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu chặng đường phát triển mạnh mẽ, toàn diện của tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, đồng thời mở ra thời kỳ phát triển mới nhanh, toàn diện và bền vững. Kiên trì với hướng đi đã được khẳng định; kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được, Đảng bộ, dân và quân tỉnh Cà Mau quyết tâm đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn thách thức, nỗ lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, xây dựng tỉnh Cà Mau phát triển nhanh và bền vững.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *