Huyền thoại Gạc Ma và khúc tưởng niệm tháng Ba

Hồi ức từ người “giỗ sống”

Thiếu úy Trần Thiên Phụng là một trong 9 chiến sĩ được coi là hy sinh trong sự kiện “Trường Sa – 88”. Trước khi anh trở về sau 9 năm bị giam cầm ở nhà tù Trung Quốc, gia đình, vợ anh Phụng đều lấy ngày 14/3 làm ngày giỗ của anh.

Gặp lại sau gần hai năm kể từ ngày khánh thành Tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời” ở bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, ngày 27/7/2017, những câu chuyện chiến đấu anh dũng và thắm tình đồng đội vẫn nóng hổi và chứa chan xúc động, được anh Phụng kể lại, về sự kiện Gạc Ma ngày ấy. Anh bảo: “Hơn 1/3 thế kỷ trôi qua, thời gian có thể xóa nhòa hoặc làm cho người ta quên nhiều thứ, song đối với sự kiện “Trường Sa 88” thì tôi không bao giờ quên. Trong ký ức tôi – một người “đã chết” từ Gạc Ma trở về, không bao giờ quên được những bi thương của đồng đội”.

Đảo Cô Lin sừng sững giữa biển trời Tổ quốc.

Đầu tháng 3/1988, Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (gồm các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi) của Việt Nam, lại tiếp tục dã tâm ý đồ chiếm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, với mục đích nhằm kiểm soát cả khu vực cụm đảo Sinh Tồn. Trung Quốc đã huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa với 9 – 12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc và một pông-tông lớn để hỗ trợ.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh cho các lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 12/3/1988, tàu HQ 605 (Lữ đoàn 125) do Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng, được lệnh từ Đá Đông đến đóng giữ Len Đao. Sau 29 giờ hành quân khẩn trương, tàu đã đến đảo và cắm cờ Tổ quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam vào lúc 5 giờ ngày 14/3/1988. “Trước đó, ngày 11/3/1988, chúng tôi xuất phát từ Cam Ranh. Đến chiều tối 13/3, tàu đến sát bãi Gạc Ma. Khi tàu HQ-604 vừa thả neo, phía địch đã cho tàu quần thảo xung quanh, bắc loa kêu gọi tàu ta phải nhổ neo. Trung tá Trần Đức Thông – Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146 (người chỉ huy cao nhất ở khu vực này) kêu gọi anh em bình tĩnh, tổ chức cắm cờ khẳng định chủ quyền của Việt Nam, hạ xuồng vận chuyển vật liệu xây dựng lên đảo. Nhóm cắm cờ do tôi dẫn đầu đã hoàn thành việc cắm cờ ngay trong đêm”, cựu binh Trần Thiên Phụng bồi hồi kể lại.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 14/3/1988, phía Trung Quốc cho xuồng nhỏ áp sát bãi Gạc Ma, lính Trung Quốc lăm le vũ khí tiến vào đảo yêu cầu quân ta hạ cờ. “Trước tình thế nguy cấp, Trung tá Trần Đức Thông đã ra lệnh anh em bơi vào đảo để hỗ trợ nhóm Thiếu úy Phương giữ cờ. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh và 3 chiến sĩ khác lập tức nhảy khỏi tàu HQ- 604 bơi vào đảo Gạc Ma. Lúc đó có 9 người trên đảo. Anh em cầm tay nhau kết thành vòng tròn bất tử. Phía trước đối mặt với quân thù, sau lưng là cờ Tổ quốc. “Lúc đó lính Trung Quốc rất đông. Chúng lăm lăm súng AK giương lên sáng quắc hăm dọa. Chúng nói tiếng Trung Quốc, dù không hiểu nhưng chúng tôi hiểu chúng muốn hạ cờ. Chúng tôi lúc đó không có vũ khí gì ngoài quốc chim công binh và xà beng đào san hô”, anh Phụng nhớ lại,  64 liệt sĩ hy sinh trong sự kiện hải quân Trung Quốc dùng vũ lực tàn sát Hải quân Việt Nam ngày 14/3/1988, có một sĩ quan đeo quân hàm cấp trung tá, 2 sĩ quan cấp đại úy, 3 sĩ quan cấp thượng úy, 2 sĩ quan cấp trung úy, 2 sĩ quan thiếu úy, 1 sĩ quan chuẩn úy. Liệt sĩ là hạ sĩ quan chiến sĩ có 46 người (2 thượng sĩ, 9 trung sĩ, 11 hạ sĩ, 17 binh nhất, 7 binh nhì); hai quân nhân chuyên nghiệp, 1 liệt sĩ giữ chức thuyền trưởng, 4 liệt sĩ giữ chức phó thuyền trưởng, 1 liệt sĩ giữ chức đại đội trưởng, 3 người giữ chức trung đội trưởng, 2 chiến sĩ giữ chức tiểu đội trưởng. Nhưng dù các anh mang quân hàm cao hay thấp, giữ chức vụ gì, thì sự hy sinh của các anh đã trở thành bất tử, sống mãi trong lòng các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong suốt 30 năm qua.

Giọng anh Phụng chùng xuống: “Ngày 14/3 là ngày giỗ chung của 64 đồng đội tôi. Thời gian 31 năm rồi mà không thể nguôi ngoai”.

Kiêu hãnh Tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời”.

Tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời”

Năm 2017, có một sự kiện khá quan trọng trong hành trình tri ân 64 liệt sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh tại Gạc Ma – Trường Sa ngày 14/3/1988. Đó là khánh thành Khu tưởng niệm liệt sĩ Gạc Ma với tên gọi: “Những người nằm lại phía chân trời” tại bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. 

Không thể nào quên được buổi tối hôm ấy, đó là ngày 15/7/2017, tức là trước 12 ngày Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ. Tại Tượng đài “Những người nằm lại phía chân trời”, hàng ngàn người con đất Việt, trong đó có những người mẹ, vợ, con, cháu của 64 liệt sĩ đã hy sinh trong trận “Hải quân Trung quốc tàn sát bộ đội Việt Nam tại đảo đá Gạc Ma” đến dự lễ tâm linh rước vong hồn 64 liệt sĩ từ biển Cam Ranh vào lòng đất mẹ. Tất cả đều một lòng thành kính tri ân và không cầm được nước mắt trước anh linh các liệt sĩ. 

Đón anh linh 64 đồng đội từ biển Gạc Ma về  lòng đất mẹ, có nhiều cựu binh còn sống sót trở về từ trận chiến Gạc Ma. Họ đến từ Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An, Đăk Lắk. Mỗi người có một cung bậc cảm xúc khác nhau nhưng tựu chung đều xúc động đau thương nhưng cũng vô cùng kiêu hãnh.

Ông Nguyễn Văn Chương, nguyên Chỉ huy phó Quân sự đảo Gạc Ma trong trận “Hải chiến Trường Sa” ngày 14/3/1988, vượt gần 200km từ tỉnh Đăk Lắk. Ông không ngờ rằng sau gần 30 năm ông lại được gặp lại những đồng đội đã từng cùng ông cầm súng chống lại quân xâm lăng. “Tôi không quên được ngày sống ở Gạc Ma, chỉ huy với lính như anh em một nhà. Cứ đến ngày 14/3, đêm nằm nước mắt chảy, thương anh em vô cùng”. Ông Chương khóc, giọt nước mắt người cựu binh sống sót trở về từ đảo đá Gạc Ma nén chặt trào dâng xúc động.

Đoàn công tác làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ Trường Sa.

Khúc tưởng niệm tháng Ba

Trong hải trình đi thăm cán bộ chiến sĩ Trường Sa một chiều đầu tháng Ba, đoàn công tác chúng tôi hải trình đến vùng biển, đảo Cô Lin, Gạc Ma làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ. Chẳng ai bảo ai, tự trong trái tim mỗi người dâng tràn xúc động. Chúng tôi nhìn về phía đảo Gạc Ma xót xa. Nhiều phóng viên nghẹn ngào, còn các chiến sĩ rơm rớm nước mắt.

Giữa biển trời Tổ quốc, mùi khói hương nghi ngút, tiếng nhạc thiết tha. Chúng tôi xếp thành hàng lặng lẽ trên boong tàu. Trong cơn giông cuối chiều, tiếng trưởng đoàn công tác thăm thẳm sâu quyện vào sóng nước. “Đảo Trường Sa là của Việt Nam, là linh hồn Tổ quốc Việt Nam. Nơi đây, bao người con ưu tú của Tổ quốc đã chiến đấu anh dũng, hy sinh, giành giật từng tấc đảo và bảo vệ những phiến đá kiến tạo qua hàng ngàn năm lịch sử, được cha ông ta giữ gìn từ lâu đời. Không để kẻ thù cướp đảo thân yêu, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh đã giằng co quyết liệt, cắm cờ Tổ quốc lên đảo để khẳng định cột mốc chủ quyền. Lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân thêm một lần nữa lại tô thắm máu đào của 64 liệt sĩ. Tiếng nói của Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương sẽ mãi khắc sâu trong tâm khảm của triệu triệu người dân Việt Nam, từ thế hệ này qua thế hệ khác: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Tiếng nói ấy không chỉ thể hiện khí phách anh hùng, mà còn là tư thế của người làm chủ thực sự biển, đảo dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó là một tuyên ngôn bất tử về Trường Sa – tuyên ngôn của thế hệ trẻ hôm nay, không sợ hy sinh gian khổ, quyết đem cả tính mạng của mình bảo vệ từng tấc đất, sải sóng thiêng liêng của Tổ quốc.  Các anh đã gác lại bao ước mơ, hoài bão và dâng hiến tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ những cột mốc tiền tiêu. Máu các anh lẫn vào biển xanh, xương của các anh đã thấm vào lòng đảo, tên các anh được đời đời thế hệ hôm nay và mai sau ghi nhớ”.

Tràng hoa tưởng niệm thả xuống lòng biển mẹ hôm nay là khúc tưởng niệm tháng Ba, viếng các anh hùng liệt sĩ. Khúc tưởng niệm ấy có cả bi thương chen lẫn tự hào; có cả niềm đau chen lẫn giọt nước mắt. Nhưng cuộn gói tất cả trong đó là nghĩa cử tri ân và lòng ghi ơn tạc dạ của triệu triệu người dân Việt Nam đối với các liệt sĩ. Xin cầu mong linh hồn các anh bình yên vĩnh hằng trong lòng biển mẹ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *